Tiếng hát bắt nguồn từ chính cuộc sống, tiếng lòng con người và là cả một vùng đất. Điều đẹp đẽ này luôn là món quà quý giá nhất từ trước tới nay. Tiếng Đờn ca tài tử khi cất lên, ta dường như thấu hiểu được cả nỗi lòng của người dân miền sông nước. Đây là nghệ thuật kết hợp của đờn (đàn) và ca, được những người dân Nam bộ sáng tác để hát sau những giờ lao động vất vả. Lời ca với lối sống cần cù, phóng khoáng và cởi mở. Mang nét bình dị mà nghĩa hiệp, can trường. Chữ “tài tử” có ý chỉ người chơi nhạc có biệt tài, đặc biệt giỏi về cổ nhạc. Lúc đầu chỉ có đờn là chính; sau xuất hiện thêm hình thức ca nên gọi chung là đờn ca.
Lịch sử và nguồn gốc của Đờn ca tài tử
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ là loại hình nghệ thuật trình diễn phổ biến ở miền Nam Việt Nam, ra đời vào cuối thế kỷ XIX, Bằng điệu đờn, tiếng hát, loại hình sinh hoạt văn hóa này gắn kết cộng đồng thông qua thực hành và sáng tạo nghệ thuật, trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình triều Nguyễn và âm nhạc dân gian miền Trung, miền Nam, nên vừa có tính bình dân, vừa mang tính bác học.
Người nắm giữ và thực hành Đờn ca tài tử Nam Bộ gồm: người dạy đàn (còn gọi là Thày đờn), là người có kỹ năng, kỹ thuật đàn giỏi, thông thạo những bài bản cổ, dạy chơi các nhạc cụ; người đặt lời (còn gọi là Thày tuồng), là người nắm giữ tri thức và có khả năng, kinh nghiệm sáng tạo những bài bản mới; người dạy ca (còn gọi là Thày ca).
Là người nắm giữ tri thức, thông thạo những bài bản cổ, có kỹ thuật ca điêu luyện, dạy cách ca ngâm, ngân, luyến láy; người đờn – còn gọi là Danh cầm; và, người ca – còn gọi là Danh ca. Những nghệ nhân bậc thầy nổi tiếng, như ông Nguyễn Quang Đại (nghệ danh là Ba Đọi) hay ông Lê Tài Khị (nghệ danh là Nhạc Khị) được coi là Hậu tổ, sau khi mất đã được cộng đồng tôn vinh, lập đền thờ, học trò hương khói thường xuyên.
Đờn ca tài tử có những đặc điểm gì?
Các bài bản của Đờn ca tài tử được sáng tạo dựa trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình, nhạc dân gian miền Trung và Nam. Các bài bản này được cải biên liên tục từ 72 bài nhạc cô và đặc biệt là từ 20 bài gốc cho 4 điệu, gồm: 6 bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng), 7 bài Hạ (dùng trong tế lễ, có tính trang nghiêm), 3 bài Nam (diễn tả sự an nhàn, thanh thoát) và 4 bài Oán (diễn tả cảnh đau buồn, chia li).
Nhạc cụ được sử dụng trong đờn ca tài tử khá phong phú. Bao gồm: đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn tỳ bà, đàn tam (hoặc đàn sến, đàn độc huyền), sáo, tiêu, song loan,… Từ khoảng năm 1930 thì có thêm đàn ghita phím lõm, violin, ghita Hawaii (đàn hạ uy cầm).
Người thực hành Đờn ca tài tử gồm người dạy đàn (thầy Đờn) có kỹ thuật đàn giỏi, thông thạo những bài bản cổ, dạy cách chơi các nhạc cụ, người đặt lời (thầy Tuồng) nắm giữ tri thức và kinh nghiệm, sáng tạo những bài bản mới, người dạy ca (thầy Ca) thông thạo những bài bản cổ, có kỹ thuật ca điêu luyện, dạy cách ca ngâm, ngân, luyến,…;người Đờn (Danh cầm) là người chơi nhạc cụ và người ca là người thể hiện các bài bản bằng lời.
Để tạo nên những bản đờn ca hay; cuốn hút lòng người cần có sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa cả đờn và ca. Tiếng đờn cất lên, tiếng ca vang vọng khắp sông nước như nói hộ tiếng lòng của người dân. Ở đó có niềm vui, có nỗi buồn, có hạnh phúc và cả sự chia ly.
Nét đẹp văn hóa người dân Nam Bộ
Cũng giống như nhiều thể loại nhạc dân gian khác; đờn ca tài tử cũng bắt nguồn từ cuộc sống thường nhật. Nhờ đó mà nó gây được xúc cảm, nó dân giã và gần gũi. Bây giờ ở đâu, lúc nào, người dân Nam Bộ cũng tự hào về tài sản tinh thần chung của người dân miền sông nước – đờn ca tài tử. Bởi đó chính là tiếng lòng của họ; bởi nó được nuôi dưỡng qua biết bao nhiêu thế hệ con người.
Nó lớn lên, được vun đắp tình thương, được nhiều thế hệ vun vén và xây đắp. Họ nói những âm điệu quê hương ấy đã chảy trong huyết quản của họ để thành “máu đờn ca”. Nghe bạn ca, ai cũng có thể gật gù theo tiếng song loan gõ nhịp; thưởng thức cung bậc bổng trầm, cảm câu ca, chữ nhạc và đánh giá tổng hòa bằng lời suýt soa: “mùi quá”; “đã quá” hoặc cười xòa khi người thể hiện bị lỡ nhịp.
Những người con của miền sông nước có niềm tự hào riêng về đờn ca tài tử. Vì đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật duy nhất vừa có được sự sang trọng; công phu của thể loại nhạc thính phòng, vừa có sức lan tỏa trên phạm vi rộng lớn nhất. Và ngay trong cuộc sống đương đại, đờn ca tài tử vẫn lan rộng khắp những con sông; trên những chuyến đo, trong sân nhà, ngoài ngõ,… Cuộc sống có luân chuyển, đổi thay thì những tiếng ca, tiếng đờn vẫn thế. Nét mộc mạc, giản đơn của đờn, giọng hát mặn mà, tha thiết của người hát. Cứ vang vọng mãi cho đến cả cuộc sống ngày hôm nay.
Thưởng thức những giai điệu của nghệ thuật Đờn ca ngày thường
Không khó để người ta có thể thưởng thức; được những giai điệu, lời ca khi đến với miền Tây sông nước. Đến đây, đi ở ngoài đường, thỉnh thoảng ta vẫn có thể nghe một câu vọng cổ vang vọng đâu đó. Ngồi trên sông cũng có thể nghe vài điều đờn ca tài tử vọng lại.
Vào những đêm trăng sáng, ở các miệt vườn, các bến tàu, bến thuyền, chúng ta vẫn bắt gặp đâu đó những đội diễn đờn ca tài tử của người dân miền Tây. Nó giống như một nét văn hóa đặc trưng; một nếp sinh hoạt thường ngày của con người miền sông nước vậy. Đối với họ, đó là một lối sống. Có thể nói, đối với người dân miền Tây; tình yêu với bộ môn nghệ thuạt này đã thấm vào máu thịt
Người trẻ của ngày hôm nay; được gieo vào trong tim một tình yêu bất diệt. Họ hát bằng chính những cách mà người đi trước truyền dạy. Nhờ đó, ta hiểu hơn về con người miền Tây, những nỗi lòng, niềm vui và nỗi buồn của họ.
Nếu một lần đặt chân đến miền Tây sông nước; sao không thử dành một khoảng thời giờ nào đó. Đắm mình trong những giai điệu đờn ca tài tử; bạn sẽ thấy yêu hơn đất nước và con người Việt Nam.
Xem thêm những bài viết cùng chuyên mục tại: Văn hóa Việt Nam